Xác định được vai trò đó, trong những năm qua, việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm trên địa bàn huyện có sự chuyển biến, tiến bộ rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Nhiều cấp ủy, UBKT đã nhận thức rõ hơn tính cấp thiết của việc kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Qua kiểm tra, đã kết luận và xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm, góp phần đấu tranh, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng; chủ động ngăn ngừa vi phạm, tiêu cực của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đề cao kỷ cường, kỷ luật trong Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong năm 2016, UBKT từ huyện đến cơ sở tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 07 tổ chức đảng cấp dưới, trong đó UBKT Huyện ủy kiểm tra 06 tổ chức đảng (05 tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, 01 tổ chức đảng cấp dưới cách một cấp), UBKT Đảng ủy cơ sở kiểm tra 01 tổ chức đảng. Qua kiểm tra, kết luận 07 tổ chức đảng có khuyết điểm, vi phạm nhưng chưa đến mức phải đề nghị thi hành kỷ luật, đề nghị kiểm điểm rút kinh nghiệm, yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm. UBKT từ huyện đến cơ sở đã kiểm tra dấu hiệu vi phạm 24 đảng viên; trong đó: UBKT Huyện ủy kiểm tra 11 đảng viên , gồm 06 đảng viên thuộc diện Huyện ủy quản lý (03 ĐUV, 02 CUV, 01 đảng viên là Phó trưởng phòng), 05 đảng viên thuộc cấp dưới quản lý; UBKT Đảng uỷ cơ sở kiểm tra 13 đảng viên, (ĐUV 01 đồng chí, 01CUV, đảng viên không giữ chức vụ 11 đồng chí). Qua kiểm tra kết luận, 24 đảng viên có khuyết điểm vi phạm, phải thi hành kỷ luật 11 đảng viên, 13 đảng viên có vi phạm nhưng chưa đến mức phải thi hành kỷ luật, yêu cầu kiểm nghiêm túc để rút kinh nghiệm. Nhìn chung, việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, UBKT từ huyện đến cơ sở luôn xác định được đây là nhiệm vụ trọng tâm, chủ động nắm bắt tình hình phát hiện dấu hiệu vi phạm, lựa chọn nội dung, lĩnh vực có nhiều dư luận bức xúc, nổi cộm để tiến hành kiểm tra, làm tốt công tác thẩm tra, xác minh, kết luận rõ đúng, sai, xử lý nghiêm đối với những trường hợp có vi phạm, giúp tổ chức đảng, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm vi phạm.
Mặc dù, UBKT từ huyện đến cơ sở đã có nhiều cố gắng, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên, nhưng kết quả chưa đáp ứng với thực tế tình hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, chưa thực sự chủ động phát hiện và tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm ở những lĩnh vực, địa bàn có nhiều tìm ẩn dễ phát sinh sai phạm; có những vi phạm từ nhiều năm trước nhưng chậm phát hiện và kiểm tra, hành vi sai phạm ngày càng tinh vi, phức tạp. Từ đó, đã hạn chế việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót , những hiện tượng, biểu hiện không tuân theo, không làm hoặc làm trái các quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và cá đoàn thể chính trị - xã hội khi mới mạnh nha, trong đó đặc biệt là ngăn ngừa những hiện tượng, biểu hiện tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong Đảng.
Trong bối cảnh hiện nay, rất nhiều vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn và cả lý luận; đối tượng, phạm vi, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, các tổ chức đảng, nhất là cán bộ, đảng viên đang chịu sự tác động của nhiều nhân tố phức tạp trong đổi mới, vấn đề giữ vững và nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên đang đứng trước nhiều thách thức mới. Và một trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện nay của Đảng ta là tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, nhất là kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm càng đặc biệt chú trọng. Điều này nhằm phòng chống các biểu hiện “tha hóa” quyền lực, “lợi ích nhóm”, góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, hiệu quả điều hành phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT từ huyện đến cơ sở cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục hơn nữa nhằm nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, nhất là người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể về mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tác dụng của việc kiểm tra DHVP. Từ đó, tổ chức đảng và đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh và phối hợp với UBKT làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt việc phát hiện kịp thời những hiện tượng, biểu hiện vi phạm để tiến hành kiểm tra xử lý.
Thứ hai, thực hiện đúng tư tưởng chủ đạo của công tác kiểm tra là “chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả”, UBKT hai cấp chủ động xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra toàn khóa, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát cụ thể hằng năm xác định đối tượng, nội dung tập trung trên các lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm để kịp thời nhắc nhỡ và chấn chỉnh chuyển kiểm tra DHVP, cũng như qua kiểm tra để động viên, biểu dương, khuyến khích, nhân rộng mô hình hoạt động hiệu quả, những tổ chức đảng và đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, có những phương thức lãnh đạo giúp tổ chức đảng vững mạnh để động viên.
Thứ ba, khắc phục tình trạng thủ động chờ ý kiến chỉ đạo, đồng ý của cấp ủy mới triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nói chung và kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên nói riêng, chủ động nắm bắt thông tin qua nhiều kênh khác nhau để kịp thời phát hiện, xác định DHVP để kiểm tra, bằng các hình thức như: Thực hiện tốt quy chế phối hợp với các ngành, nhất là các cơ quan xây dựng Đảng, cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan khối nội chính, HĐND trong quá trình thực hiện công tác kiểm tra, giám sát. Thực hiện tốt việc giám sát thường xuyên thông qua: báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát chuyên đề; kết quả thanh tra, điều tra; báo cáo kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng và đảng viên; báo cáo kết quả bình xét, phân tích chất lượng đảng viên, tổ chức đảng; theo dõi các buổi họp, hội nghị cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, tổng kết để nắm bắt kịp thời phản ảnh của đảng viên, cán bộ và nhân dân; kết quả thực hiện chất vấn tại các kỳ họp HĐND các cấp,.. để nắm bắt thông tin hiệu quả nhất. Cán bộ được phân công theo dõi tại địa phương, đơn vị kịp thời phản ảnh, báo cáo với cấp ủy hoặc trực tiếp trao đổi với UBKT khi phát hiện những hiện tượng, biểu hiện sai phạm để UBKT tiến hành làm rõ nếu cần thiết ra quyết định kiểm tra DHVP. Các tổ chức đảng kịp thời báo cáo, kiến nghị của cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Tổng hợp, rà soát, phân loại các Đơn thư tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, phản ảnh, góp ý của đảng viên và quần chúng để có hướng chỉ đạo giải quyết. Tranh thủ ý kiến góp ý, phản ảnh của người dân bằng các hình thức đối thoại trực tiếp (tiếp xúc cử tri, tiếp công dân,…) hay gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, kiến nghị xây dựng đường dây nóng để tiếp nhận phản ảnh…
Thứ tư, tăng cường hơn nữa công tác lựa chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra đủ đức, đủ tài, có tư tưởng chính trị vững vàng, có lập trường chính trị kiên định, có chuyên môn nghiệp vụ cao, sẵn sàng chấp nhận khó khăn, thử thách, đấu tranh kiên quyết trước bất kỳ sự can thiệp không đúng đắn từ tập thể, cá nhân cấp trên, có kỹ năng cần thiết trong qua trình kiểm tra, xác minh để là rõ các chứng cứ pháp lý, giúp việc xem xét, kết luận chuẩn xác, xử lý công minh, kịp thời, hợp tình hợp lý, bảo đảm tính giáo dục cao cho tổ chức đảng và đảng viên. Để làm được điều này đề nghị Trung ương, tỉnh cần tiếp tục triển khai thực hiện tốt Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị về chiến lược công tác kiểm tra, giám sát Đảng đến năm 2020; tăng cường chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm tra đặc biệt là cán bộ làm công tác kiểm tra ở cơ sở.
Thứ năm, cấp ủy phải tăng cường chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho UBKT cấp mình thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra DHVP đối với tổ chức đảng và đảng viên. Ban hành quy chế phối hợp và chỉ đạo UBKT chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có DHVP một cách hiệu quả.
Thứ sáu, trong quá trình thực hiện, tiếp tục nghiên cứu, kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy định, quy chế về công tác kiểm tra, giám sát cho phù hợp với tình hình thực tế. Đặc biệt, nghiên cứu, tổ chức thực hiện tốt Thông báo số 115-TB/TW, ngày 17/12/2012 của Ban Bí thư về đề án phát hiện, xác định, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; Quyết định 1319-QĐ/UBKTTW, ngày 10/6/2013 về ban hành quy định về phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có DHVP.
Có thể nói, để việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra DHVP đối với tổ chức đảng và đảng viên đạt chất lượng và hiệu quả cao, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ về chính trị, tư tưởng, tổ chức và các điều kiện cần thiết khác; cần có sự thống nhất cao về nhận thức, hành động, quyết tâm, thể hiện rõ bản lĩnh và tính chiến đấu cao mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, đặc biệt là cán bộ công tác kiểm tra, đó cũng là nhiệm vụ trọng tâm của UBKT từ huyện đến cơ sở trong thời gian tới.