Là người Việt Nam yêu nước, thương dân nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên của Việt Nam đã thống nhất hai nội dung “nước phải độc lập” và “dân phải tự do”. Chính vì thống nhất hai mục tiêu “nước độc lập” và “dân phải tự do, hạnh phúc” mà Hồ Chủ tịch là người đầu tiên của nhân loại đã giương cao hai ngọn cờ “Độc lập dân tộc” và “Chủ nghĩa xã hội” trong thời đại ngày nay. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, là điểm xuất phát và là nội dung lớn nhất trong sự nghiệp cách mạng của Người, là chân lý sáng ngời thời đại do Người vạch ra mãi soi sáng cho cách mạng Việt Nam và cách mạng nhân loại. Tính dân tộc và tính thời đại được thể hiện rất rõ ràng và súc tích trong tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của bản Tuyên ngôn Độc lập là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì thế là một “áng thiên cổ hùng văn” của dân tộc Việt Nam và của nhân loại.
Ý nghĩa lớn lao của Tuyên ngôn độc lập đã cho thấy sự kế thừa hết sức khéo léo, chặt chẽ của Người từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Pháp, đã buộc đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ thừa nhận về quyền con người và quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam nói riêng, của mọi dân tộc trên thế giới nói chung.
Việc kế thừa hết sức tài tình hai bản tuyên ngôn ấy của Người đã làm cho Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy của nhân loại có cùng vị trí như nhau trên trường quốc tế. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc lớn nhất của Việt Nam. Nâng quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc là một sáng tạo thiên tài của Hồ Chủ tịch, thể hiện tâm huyết lớn của Người dành cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới. Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc; Khẳng định tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Phần lớn nội dung mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập là nhằm tố cáo, vạch trần bản chất cướp nước, giả danh nhân đạo, lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, phi nhân, phi nghĩa trái với nhân đạo và chính nghĩa của thực dân Pháp. Cùng với hai tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và Đây Công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương, bản Tuyên ngôn Độc lập của Người không chỉ tố cáo vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trước công luận thế giới, mà còn có tác dụng giúp nhân loại phòng tránh và chống thành công hiện tượng phản văn hóa nhất của thế kỷ XX là chủ nghĩa thực dân.
Sự ra đời bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực sự là một mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam; đã khẳng định những quyền dân tộc cơ bản của dân tộc Việt Nam và trở thành một cuộc đối thoại lớn có ý nghĩa lịch sử trọng đại: Tuyên bố với thế giới về việc chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và hàng nghìn năm phong kiến ở Việt Nam; Tuyên bố sự ra đời và yêu cầu Quốc tế công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Khẳng định quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập của Việt Nam; Thể hiện quyết tâm cao nhất của dân tộc trong đấu tranh giữ gìn độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc của nhân dân.
Ngay sau Lễ tuyên thệ của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, Người nói: “Độc lập tự do là của quý báu, quý giá vô ngần, ta đã khổ sở trong bao nhiêu năm mới giành được, cần cố gắng giữ gìn, bảo vệ”. Ngay sau tuyên bố trịnh trọng với dân tộc và toàn thế giới về quyền bình đẳng thế giới của dân tộc, quyền mưu cầu tự do sung sướng của nhân dân và tuyên bố quyết tâm cao nhất của dân tộc Việt Nam để quyết giữ gìn độc lập tự do ấy, là những tuyên bố danh thép khác của Người: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, “Nước độc lập mà dân không được tự do hạnh phúc thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì” “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”,.. đã khích lệ dân tộc Việt Nam đánh thắng các đế quốc to, hùng mạnh nhất thế giới và thời đại ở thế kỷ XX, giữ vững độc lập dân tộc và đang từng bước mang lại ngày càng nhiều các hạnh phúc to lớn cho nhân dân.
Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong một thời điểm trọng đại và phức tạp của lịch sử, có ý nghĩa xác lập tính hợp pháp và hợp hiến của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; là tác phẩm bất hủ của Hồ Chủ tịch; là bản anh hùng ca mở đầu kỷ nguyên mới Độc lập tự do và Chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, Tuyên ngôn Độc lập đồng thời còn có giá trị đấu tranh bác bỏ những lý lẽ láo xược cùng âm mưu tái chiếm Việt Nam của các lực lượng thù địch, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế vì một nước Việt Nam độc lập có chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Bản Tuyên ngôn Độc lập không còn chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà đó còn là sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc kém và chưa phát triển. Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được thế giới coi như là Tuyên ngôn nhân quyền của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. “Đó là một đạo luật mới của nhân dân thế giới khẳng định quyền tự do, độc lập bất khả xâm phạm của các dân tộc bị áp bức”.
Tổ quốc ta được độc lập, nhân dân ta đời đời được tự do, tinh thần bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt Nam. Với ý nghĩa và tầm vóc lớn lao đó, ngày 2 tháng 9 trở thành ngày hội lớn của dân tộc, ngày Quốc khánh của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.