Thực tiễn của nước ta và của nhân loại đã chứng minh tư tưởng đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin và vai trò ngày càng tăng của quần chúng nhân dân trong tiến trình lịch sử. Từ trong quá trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận rằng, muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân được khái quát ở những luận điểm lớn chủ yếu sau đây: Dân là gốc của nước, của cách mạng; Dân là chủ của đất nước, của xã hội, là chủ vận mệnh của chính mình; Dân có lực lượng to lớn, tiềm năng vô tận, nhưng không thuần nhất mà có nhiều tầng lớp khác nhau và nhiều dân tộc có trình độ phát triển chênh lệch nhau, cần được giác ngộ và lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng vì thế, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc xây dựng củng cố Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là thành viên của Mặt trận, vừa là hạt nhân lãnh đạo Mặt trận, để bảo đảm cho cách mạng thành công.
Quan điểm của Hồ Chủ tịch về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân có thể khái quát ở những luận điểm chủ yếu như sau: Đảng cầm quyền là Đảng đã giành được chính quyền và lãnh đạo chính quyền của dân, do dân, vì dân; Đảng cầm quyền là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xây dựng vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Đảng cầm quyền phải liên hệ, gắn bó mật thiết với nhân dân, là người lãnh đạo và là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Vì vậy, giữa Đảng và nhân dân có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau rất biện chứng.
Trong tư tưởng Bác, mối quan hệ biện chứng giữa Đảng và dân được biểu hiện ở những nội dung chủ yếu là phải tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam; Đảng dựa vào dân, dân tin theo Đảng là nhân tố bảo đảm sự đúng đắn của đường lối, chính sách và tạo nên thắng lợi của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; Đảng đưa đường lối vào cuộc sống của dân, lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của dân; Đảng cùng dân kiên quyết phòng chống tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn trong bộ máy của Đảng, nhà nước.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình”.
Thực hiện Nghị quyết 12, Hội nghị lần thứ tư, Trung ương Đảng (Khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã đề ra giải pháp “định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông qua Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội” và xác định ban hành “cơ chế để Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.
Điều 9 Hiến pháp nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bước tiến bộ này minh chứng công tác Dân vận và Mặt trận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Trên tinh thần ấy, ngày 03 tháng 6 năm 2013, Trung ương Đảng Khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 25 “về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Dân vận trong tình hình mới”, khẳng định Đảng ta tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo với những cách thức, hình thức, phương pháp, biện pháp cụ thể gắn liền với những quan điểm và nguyên tắc xác định, được các cấp ủy đảng, tổ chức đảng lựa chọn và sử dụng để tác động vào những đối tượng mà Đảng lãnh đạo với tính chất là chỉ đường, hướng dẫn cho những đối tượng ấy thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đ/c Nguyễn Đức Hải - UVTW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy trao cờ tại Hội nghị tổng kết
công tác xây dựng Đảng năm 2013.
Có thể khẳng định, sức mạnh của Đảng ta không phải ở sự cưỡng chế hay áp lực chính trị, mà chính ở khả năng vận động chính trị quần chúng, bằng chính sự đúng đắn của đường lối chính trị, bằng lòng trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân và của dân tộc Việt Nam. Cho nên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chính là xây dựng Đảng ta luôn thật sự là Đảng của dân, do dân, vì dân. Tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội được tuân theo những quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, nhân dân ta đã giành được độc lập và tự do, tự hào có Đảng và có Bác Hồ, coi việc tham gia xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng là vinh dự, là nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc và dân tộc, nhờ đó tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, với đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng và tấm gương chiến đấu hy sinh cao cả của đội ngũ đảng viên vì mục đích giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Đảng ta đã tồn tại và phát triển vững mạnh bởi Đảng có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
2. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, thông qua đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; thông qua các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; thông qua chính sách, pháp luật của Nhà nước... Đảng, Nhà nước ta có điều kiện thuận lợi để mở rộng và tăng cường mối liên hệ với nhân dân, đồng thời luôn cảnh giác và thường xuyên phòng chống bệnh quan liêu, xa dân. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng, Đảng ta không phải chỉ có thắng lợi, còn có những vấp váp, thậm chí những sai lầm nghiêm trọng, ví dụ như: Sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp; Sai lầm về một số chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện ở giai đoạn 1975 - 1986; Tình trạng mất dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn liền với sự thoái hóa của một bộ phận đảng viên... đã làm cho Đảng ta giảm sút uy tín.
3. Thực hiện đường lối đổi mới, trên cơ sở đánh giá đầy đủ về thực trạng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ta, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm tăng cường củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, qua đó tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân giành được những thành tựu rất quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Thông qua đó, tuyệt đại bộ phận nhân dân tin tưởng vào quan điểm, đường lối, sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới đất nước. Công tác dân vận của Đảng được tăng cường và đổi mới tương đối toàn diện, có nhiều chủ trương và chính sách đã vào cuộc sống, quy chế dân chủ ở cơ sở được xây dựng và thực hiện tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện.
4. Trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, bên cạnh những kết quả tích cực về phát huy sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân, công tác dân vận của Đảng ta còn nhiều yếu kém và chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới đất nước, như: cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chậm được cụ thể hóa; Nhiều cơ quan Nhà nước coi nhẹ công tác dân vận; Một số cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể ở cơ sở không nắm được tình hình nhân dân, không vận động giải quyết những bức xúc của nhân dân, giảm sút vai trò lãnh đạo; Công tác xây dựng bộ máy tổ chức, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ đáp ứng tiêu chuẩn của hệ thống dân vận, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được quan tâm thỏa đáng; Có nhiều nghị quyết của Đảng đặt ra việc cần có cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhưng chậm được ban hành.
5. Công tác xây dựng Đảng sau Đại hội XI của Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục (có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống; Công tác quy hoạch cán bộ trong một số trường hợp chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan lãnh đạo...) đã và đang làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng.