Theo truyền thuyết dân gian ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định… cá Ông vốn được hóa thân từ những mảnh áo cà sa của Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát xé ra, được phả vào đấy phép thuật cao cường của sự tuệ mẫn, lòng từ bi và quăng xuống biển để cứu vớt sinh linh bị chìm đắm giữa biển khơi mênh mông. Phật Bà còn lấy bộ xương của voi trên rừng ban cho cá voi để nó vừa to lớn, vừa có sức mạnh; lại ban phép “Thâu đường” (rút ngắn khoảng cách đoạn đường) thay mặt đức Phật, để lội bơi thật nhanh đến cứu người lâm nạn. Do đó, cá Ông được ngư dân vùng biển tôn vinh là vị thần “cứu độ, hộ sinh”. Cá Ông đã cứu giúp vua Gia Long - Nguyễn Phúc Ánh khi bị quân Tây Sơn rượt đuổi, lại gặp sóng to gió lớn tại cửa sông Soài Rạp trên đường chạy nạn đến đảo Phú Quốc. Vì vậy, sau khi lên ngôi (1802) vua Gia Long phong cho cá Ông là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần”. Có lẽ do góp phần minh chứng cho tư tưởng “thuận thiên” theo quan niệm của đạo Nho “tử sinh hữu mạng, phú quý tại thiên” nên vua Minh Mạng đặt tên cho cá Ông là Nhân Ngư, và hình cá voi đã được khắc vào Nhân đỉnh thuộc năm Minh Mạng thứ 17. Đến đời vua Tự Đức được cải đổi tên là Đức Ngư và kế tục sau đó, các triều vua nhà Nguyễn, gia tặng sắc phong là “Đại Càng Quốc Gia Nam Hải”, hằng năm lấy ngày mùng Mười, tháng Ba âm lịch làm ngày tế lễ Ông Nam Hải và mở hội Cầu Ngư.
Vào mùa biển động, cá Ông thường bị “lụy”, người đầu tiên phát hiện được xem là người có phước lớn, nhờ thần linh phó thác, nên còn gọi là con ông Nam Hải và vinh dự hưởng chức “trưởng nam” với ý nghĩa coi như là cha mẹ của chính mình. Để tổ chức lễ mai táng, vạn trưởng huy động ngư dân dìu xác cá Ông vào bờ, khâm liệm cẩn thận. Nếu như gặp trường hợp xác cá Ông quá lớn, thì dùng tre đan trành để làm đăng giữ lại, cử người canh chờ cho đến khi thịt rửa hết, rọc xương rồi bỏ vào khạp và đưa vào lăng, điện, đền, miếu để thờ phụng. Đám tang thường diễn ra trong ba ngày đêm liên tục. Trong nghi thức tang lễ, hoàn toàn dựa theo sách “Thọ Mai Gia Lễ” nhưng gọn hơn, giản lược hơn một số bước, cụ thể là người “trưởng nam” được thay mặt vạn chài, chịu tang trong thời gian là 100 ngày.
Lễ hội Cầu Ngư không chỉ mang ý nghĩa là đề cao tính nghề nghiệp mà còn tạo dịp giải trí nhân dân, kết nối cho con người xích lại gần nhau hơn, hiểu và thông cảm cho nhau hơn không chỉ trong những ngày “nắng hạ, mưa đông”. Chính từ sự chuyển hóa tâm thức tâm linh luôn được gắn kết với thiên nhiên, với tự nhiên và thực thi trong việc thờ cúng tiền hiền, hậu hiền: “Hữu tâm cầu tất ứng, chi đức sa tất cứu” (có tâm thờ cúng thì sẽ được giúp, chăm việc thiện thì chẳng sợ ai thù hận) nên tùy theo phong tục tập quán, tín ngưỡng của từng vùng miền, từng địa phương theo tục lệ “xuân kỳ, thu tế” mà tổ chức lễ hội. Từ tín ngưỡng tục thờ cá Ông trong Lễ hội Cầu Ngư thông qua những chi tiết thể loại hát bả trạo - một loại hình nghệ thuật diễn xướng và tất cả những yếu tố ấy, đã hợp thành một loại hình diễn xướng dân gian, xứng đáng đại diện cho một loại hình “văn hóa miền biển” của Quảng Nam.