
Đóng mới tàu vỏ thép để vươn khơi là một giải pháp để nghề cá phát triển bền vững và hiện đại. Ảnh: C.H
Thực trạng
Hiện nay toàn huyện Thăng Bình có tổng số tàu thuyền là 688 chiếc. Số tàu thuyền có công suất từ 90 CV trở lên 137 chiếc, có gần 80 chiếc tàu đánh bắt xa bờ, trong đó có 5 tàu vỏ thép, còn lại là thuyền có công suất dưới 90 CV đến 20 CV. Sản lượng đánh bắt hải sản hằng năm đạt khoảng 11 đến 15 ngàn tấn, là địa phương đứng thứ hai trong tỉnh về sản lượng khai thác, chiếm 18,8% tổng sản lượng toàn tỉnh. Trong đó, tập trung chủ yếu là xã Bình Minh và xã Bình Dương. Riêng tại xã Bình Minh, tổng số lượng tàu thuyền hiện có 147 chiếc với tổng công suất 35.600 CV, từ 90 CV đến gần 1000 CV có khoảng 107 chiếc, trong đó có 54 tàu đánh bắt xa bờ; số phương tiện từ dưới 90 CV có khoảng 40 chiếc. Sản lượng đánh bắt hàng năm của Bình Minh đạt khoảng 10 ngàn tấn, là địa phương đóng góp sản lượng hải sản đứng đầu huyện. Năm 2015 và 2016 ngư dân xã Bình Minh đã hạ thủy 3 chiếc tàu vỏ thép, 01 tàu vỏ gỗ được đóng theo Nghị định 67, 89 của của Chính phủ. Hiện nay, tiếp tục có 9 dự án đóng mới tàu cá của ngư dân xã Bình Minh đã được tỉnh phê duyệt, dự kiến trong năm 2017 sẽ có thêm 1 số tàu vỏ thép được hạ thủy, tham gia vào đội ngũ khai thác xa bờ của huyện. Xã Bình Dương hiện có 27 tàu thuyền, loại từ 45 đến dưới 90 CV chỉ còn 6 chiếc, chủ yếu làm nghề lưới vây gần bờ; 21 phương tiện từ 90 đến 940 CV, trong đó có 2 chiếc tàu vỏ thép được đóng theo Nghị định 67, 89 khai thác xa bờ, sản lượng hằng năm đạt từ 2200 đến 2500 tấn. Đặc biệt số phương tiện dưới 30 CV không còn chiếc nào. Đối với hai xã Bình Nam và Bình Hải, đa số phương tiện dưới 20 CV ( Bình Hải có 204 phương tiện, trong đó loại dưới 20 CV có 166 chiếc, trên 20 CV có 38 chiếc, không có tàu đánh bắt xa bờ; xã Bình Nam có 210 chiếc dưới 20CV, 09 chiếc trên 90 CV) các phương tiện trên chủ yếu là giã ruốc và lưới cước, cào nghêu, ốc, sản lượng khai thác của 2 xã Bình Nam và Bình Hải khoảng 1500 đến 2000 tấn/năm… Với số lượng tàu thuyền hiện nay, năng lực khai thác hải sản của huyện Thăng Bình trong những năm đến nhiều khả năng sẽ dẫm chân tại chỗ hoặc khai thác không đạt sản lượng vì nguồn lợi hải sản ven bờ ngày càng cạn kiệt nếu không có một sự điều chỉnh hợp lý.
Cơ cấu lại phương tiện, hậu cần nghề cá
Tăng tàu cá xa bờ, giảm mạnh phương tiện có công suất nhỏ khai thác gần bờ đồng thời tăng về chất đối với sản lượng khai thác hải sản trong những năm đến là định hướng phù hợp trong điều chỉnh quy hoạch của tỉnh. Như vậy, với số lượng phương tiện nghề cá loại nhỏ từ dưới 20 đến dưới 90 CV trên địa bàn huyện Thăng Bình (chiếm hơn 65%) như hiện nay, cần phải có một sự cơ cấu mạnh mẽ để từng bước hạn chế loại phương tiện này, giải pháp là không cho phát sinh thêm tàu cá dưới 30 CV, đồng thời vận động ngư dân bán các phương tiện nhỏ, hợp sức để cùng sắm mới phương tiện công suất lớn với sự trợ giúp về nguồn vốn vay và các chính sách hỗ trợ khác của nhà nước ( phấn đấu mỗi năm giảm từ 10 đến 15 % loại phương tiện nhỏ này). Đối với những người không đủ năng lực đánh bắt xa bờ, từng bước chuyển đổi sinh kế hợp lý sang lao động ở các nghề khác. Đối với những dự án đóng mới tàu cá xa bờ từ nguồn vốn vay ưu đãi theo Nghị định 89 của Chính phủ, các cơ quan chức năng của huyện, tỉnh cần quan tâm hướng dẫn, giúp đỡ ngư dân về thủ tục và đề nghị UBND tỉnh sớm phê duyệt để được triển khai vì hiện nay, nhu cầu đóng mới và cải hoán tàu thuyền của ngư dân là rất lớn. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến dịch vụ hậu cần nghề cá, ngoài việc khuyến khích ngư dân đầu tư từ 01 đến 02 tàu dịch vụ, thì việc đầu tư cho bến cá Bình Minh, khu neo đậu tàu thuyền ở Bình Dương giai đoạn 2017-2020 là một yêu cầu bức thiết để nghề cá của huyện từng bước phát triển. Ngoài ra, còn khuyến khích cho nhân dân các xã ven biển đầu tư dịch vụ chế biến, xây dựng kho đông lạnh quy mô để chủ động tích trữ và phân phối nguồn hàng hải sản, hạn chế việc “được mùa mất giá”.
Hướng đến phát triển bền vững và hiện đại
Tại kỳ họp thứ 3 HĐND tỉnh Quảng Nam khóa IX vừa qua đã thông qua việc điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành thủy sản Quảng Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, giảm áp lực khai thác hải sản ven bờ, chú trọng sản xuất trên các vùng biển xa để hướng đến phát triển nghề cá bền vững. Đối với Thăng Bình, sản lượng khai thác hải sản hàng năm của huyện dao động từ 12 đến 15 ngàn tấn.Trong tổng sản lượng hải sản khai thác được hằng năm thì hai phần ba sản lượng là do khai thác gần bờ. Chủ trương phát triển nghề cá trong những năm đến của huyện là thay đổi tỷ lệ khai thác ( 2/3 sản lượng xa bờ, 1/3 gần bờ), không coi trọng đổi thay về lượng mà chủ yếu là chuyển động về chất. Hướng cho ngư dân thay đổi từ tư duy sản xuất theo khả năng sang sản xuất theo nhu cầu thị trường. Khuyến khích đầu tư phương tiện đánh bắt đủ năng lực để khai thác có trọng tâm và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nghĩa là không cần tăng về sản lượng nhưng hải sản khai thác được có giá trị kinh tế cao gấp nhiều lần, khai thác có chọn lọc để vừa đảm bảo thu nhập nhưng vẫn bảo vệ được nguồn lợi hải sản. Để làm được điều này, cần phải có đủ các điều kiện như phương tiện công suất lớn, trang thiết bị hiện đại, năng lực và nguồn nhân lực đánh bắt xa bờ…Trước mắt, cần khuyến khích và tập trung điều chỉnh các nhóm nghề cá phù hợp với định hướng chuyển đổi từ đánh bắt gần bờ qua xa bờ một cách hợp lý. Theo đó, hạn chế nghề lưới kéo (còn 5%); nghề lưới vây 12%, nghề lưới rê 48%, nghề câu 16% còn lại là các nghề khác…
Để cụ thể hóa chủ trương phát triển bền vững và hiện đại hóa nghề cá của huyện, cần phải thực hiện các bước đồng bộ từ việc triển khai chủ trương điều chỉnh quy hoạch của tỉnh, ban hành Nghị quyết về phát triển nghề cá của huyện, đồng thời quan tâm để ngư dân sớm tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, khuyến khích, thúc đẩy việc đóng mới, cải hoán tàu cá, đào tạo nguồn nhân lực như thuyền trưởng, máy trưởng để nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ, chuyển giao công nghệ sản xuất mới để bảo quản hải sản tốt hơn và ổn định đầu ra hải sản bằng cách xây dựng những khu hậu cần nghề cá vững mạnh để đảm bảo cho nghề cá Thăng Bình phát triển ổn định, bền vững.