Chi tiết tin

A+ | A | A-

“ BÁC TÁM ĐÔ”

Người đăng: Admin Đảng ủy Ngày đăng: 14:10 | 22/09/2014 Lượt xem: 841

“Bác Tám Đô”- đó là tên gọi gần gũi, thân thương mà đồng đội và nhân dân hay dùng để gọi tên người chiến sĩ cộng sản, người Đảng viên mẫu mực Trần Văn Đô- hiện ở tại tổ 2- Thị trấn Hà Lam- huyện Thăng Bình. Mùa xuân Giáp Ngọ năm nay, bác Đô bước sang tuổi 90 và tròn 64 năm tuổi Đảng. Ở vào cái tuổi “ xưa nay hiếm”, nhưng đối với những ai đã từng có dịp tiếp xúc, đều cảm nhận rõ nét tinh anh trong từng lời nói, cử chỉ và hành động của Bác. Thêm một tuổi đời, một tuổi Đảng, những người như Bác lại càng dày dạn kinh nghiệm, bản lĩnh, trí tuệ để tiếp tục đóng góp cho Đảng, cho Tổ quốc và nhân dân.

Đảng viên đi trước!

Sinh năm 1925 tại xã Thăng Xuân ( toàn bộ xã Bình Nguyên bây giờ) trong một gia đình có 8 anh chị em. Đây là thời điểm mà toàn bộ 3 xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ của nước An Nam đều bị Thực dân Pháp tiến hành chia để trị. Vì vậy, Trần Văn Đô cùng với hàng chục thanh niên thuộc thành phần gia đình trung nông lúc đó đều chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp. Học xong bằng Yếu lược ( tương đương với bằng cấp 1 bây giờ) của Chính phủ Pháp, không như nhiều thanh niên khác tham gia nhiều hoạt động xã hội thân Pháp, ông về lại nhà và chăm chú vào việc chăn trâu, cày ruộng với quan niệm: Trước mắt phải lo cho bụng no, rồi mới có sức để tham gia cùng với nhân dân chiến đấu chống giặc được. Đến tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã đồng loạt đứng dậy, tiến hành cuộc Khởi nghĩa giành chính quyền trong khắp cả nước. Trần Văn Đô khi ấy là một thanh niên vừa tròn 20 tuổi liền hăng hái tham gia cùng đoàn người kéo về trụ sở huyện lỵ lật đổ chính quyền. “ Thật tình lúc ấy tôi cũng chưa hiểu rõ những từ cách mạng, giải phóng  là chi đâu, thấy dân mình khổ chỉ vì không có ăn và bị bọn thực dân thống trị, nên khi biết là giành được chính quyền thì mừng quá, thanh niên trai tráng trong làng trong tay chỉ có dao rèn, gậy gộc, cuốc thuổng, cứ thế mà xông đến”- ông nhớ lại. Sau ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập- khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, theo chủ trương của trên, các địa phương đều thành lập Ban tự vệ chiến đấu- tiền thân của lực lượng dân quân du kích. Nhờ có được sức khỏe tốt cộng với sự lanh lẹ, Trần Văn Đô được giao quyền làm Trưởng ban tự vệ chiến đấu, Thôn đội trưởng xã Thăng Xuân. Với những việc làm sáng tạo, hiệu quả trong cách đánh giặc, ngày 30 tháng 12 năm 1949, anh thanh niên Trần Văn Đô được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam khi vừa bước sang tuổi 24. Liên tục trong 4 năm 1950- 1954, Trần Văn Đô được giao nhiệm vụ làm xã đội phó, xã đội trưởng rồi đến Chính trị viên xã Thăng Điền ( bao gồm khu vực từ Hương An- huyện Quế Sơn đến hết địa phận xã Bình Tú bây giờ). Cuối năm 1954, Trần Văn Đô cùng hàng chục thanh niên trong huyện được điều động ra Miền Bắc để trực tiếp tham gia chống thực dân Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ. Ra đến Hà Nội, Trần Văn Đô là một trong những thanh niên đầu tiên xung phong lên chiến trường để thực hiện nhiệm vụ giao thông công chính, sửa chữa lại tuyến đường đèo Pha Đin- nối liền 2 tỉnh Lai Châu và Điện Biên, để đưa chiến lợi phẩm về lại Thủ đô Hà Nội. “ Hồi đó, mặc dù địch đã liên tiếp bị thất bại, nhưng chúng vẫn dùng đủ trò để tập hợp, kích động bọn phản động ở địa phương, tuyên truyền lừa bịp đồng bào các dân tộc thiểu số, lôi kéo họ đi theo bọn phỉ phá hoại cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Chúng tung  gián điệp để vừa dò la tin tức, vừa phá hoại kho tàng, cầu cống, đường sá, nuôi dưỡng bọn phản động ở địa phương nhằm ngăn cản đường của ta. Nhưng với tinh thần quyết tâm, mỗi anh em cán bộ chiến sĩ chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Ban ngày thì làm binh vận, ban đêm mới đem cuốc thuổng ra đào, chỉ trong thời gian ngắn, hơn 38km đường đèo được thông, từng chiến lợi phẩm lần lượt về Thủ đô an toàn”- Bác Đô nhớ lại. Từ sau chiến công ấy, Trần Văn Đô được Trung ương điều động sang công tác ở Phòng thiết kế thuộc Bộ Công nghiệp nặng, làm việc chung với những kỹ sư lừng danh được Bác Hồ mời về từ nước Pháp như Trần Đại Nghĩa ( tên thật Phạm Quang Lễ), Hồ Thị Thu Vân, Nguyễn Công Nay…Ở Phòng thiết kế, Bác giữ chức vụ Phó bí thư chi bộ và làm Trưởng ban địa điểm ( giải phóng mặt bằng). Trong 1 năm công tác, Trần Văn Đô đã cùng đồng nghiệp thực hiện giải phóng và bàn giao hoàn thiện nhiều diện tích đất để Nhà nước xây dựng các công trình còn tồn tại đến bây giờ như Nhà máy Cơ khí Hà Nội, khu Công nghiệp Việt Trì, Gan thép Thái Nguyên…Nhận thấy tinh thần nhiệt huyết, đức tính cần mẫn trong công việc cũng như sinh hoạt, đầu năm 1960, Trung ương đã đi đến một quyết định mà theo ông, quyết định này đã thực sự làm thay đổi cách suy nghĩ cũng như con đường hoạt động cách mạng của mình. Đó là điều ông tham gia đoàn công tác sửa sai cho công cuộc cải cách ruộng đất tại huyện Giao Thủy- tỉnh Nam Định. “ Tôi cũng có chút ít lợi thế là đã sống ở miền Bắc Xã hội chủ nghĩa được gần 5 năm, nên phần nào cũng hiểu được văn hóa, cách sống của người ngoài này”- Bác tâm sự. Ngay sau khi tiếp nhận nhiệm vụ, điều đầu tiên ông làm là xuống tận từng nhà người dân để tìm hiểu phong tục của người bản xứ, tìm xem trước và sau khi thực hiện cải cách ruộng đất, đời sống của nhân dân nơi đây thay đổi như thế nào. “ Cực khổ nhưng cũng phải đến từng nhà, cùng ăn cùng ở, thì bà con nhân dân mới tin vào cán bộ, tin vào chủ trương cần phải tiến hành cải cách lần này, từ đó họ mới thổ lộ tâm tư, nguyện vọng cho mình biết. Như thế là đã thành công được 50% rồi.”- Ông cho biết. Sau 1 năm ở Giao Thủy, ông cùng với đoàn công tác đã nắm chính xác từng thông tin có liên quan đến vấn đề cải cách ruộng đất, cũng như điều tra được người dân hiện đang cần những gì từ Chính phủ. Khi vừa hoàn thành hồ sơ báo cáo về Trung ương, Trần Văn Đô nhận được thông báo của trên, cử đi học lớp quản lý các công trình công nghiệp. Sau thời gian 2 năm được đào tạo, ông được điều động xuống Quảng Ninh giữ chức vụ Trưởng phòng hành chính quản trị thuộc Nhà máy cơ khí Hồng Gai. Lúc này đã bước sang mùa xuân năm 1965, thời điểm mà cuộc chiến đấu của nhân dân Miền Nam chống Đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngụy đang diễn ra quyết liệt. Chấp hành mệnh lệnh của trên, Trần Văn Đô cùng nhiều thanh niên tập kết ra Bắc liền trở về tham gia cùng nhân dân đánh giặc. Cũng trong năm này, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó ban phụ trách công tác nội tuyến trực thuộc Ban binh vận của tỉnh Quảng Đà. Nơi hoạt động của đơn vị kéo dài từ xã Bình Lâm- huyện Hiệp Đức đến T.P Tam Kỳ bây giờ. Với những kinh nghiệm sẵn có, cộng với bản lĩnh chính trị vững vàng, trong giai đoạn 1966- 1975, Trần Văn Đô đã vận động hàng ngàn thanh niên quay về với cách mạng. Có một cái tên mà đến bây giờ ông vẫn còn nhớ mãi. Đó là Nguyễn Ngọc Nghĩa- Trung tá, chỉ huy Sư đoàn 2 Ngụy đóng ở Tuần Dưỡng- Bình An. Lần đó, Bác là người trực tiếp đưa thư vận động đến tận tay Trung tá Nghĩa. Dù biết là mình đang ở ngay trong lòng địch, nhưng với bản tính kiên trung của người cách mạng, Bác không ngừng tuyên truyền, vận động, giải thích đường lối, ngay sau đó, Nguyễn Ngọc Nghĩa đã chấp nhận rời bỏ hàng ngũ của địch và vận động thêm anh em chiến sĩ quay về với cách mạng. Sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất Đất nước, Trần Văn Đô giữ chức vụ Phó ban dân vận tỉnh ủy, rồi Phó Ty xây dựng Quảng Nam- Đà Nẵng cũ. Đến cuối năm 1977, ông xin cấp trên được nghĩ hưu vì cảm thấy trình độ năng lực của mình không thể đáp ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên với bản lĩnh, trí tuệ và những kinh nghiệm của ông, đầu năm 1978, Huyện ủy Thăng Bình đã đề nghị ông tiếp tục công tác với chức danh Chủ tịch UBND xã Bình Nguyên. Đến năm 1980, khi Thị trấn Hà Lam được thành lập, ông là người đầu tiên được tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy của Thị trấn. Dù ở cương vị nào, ông luôn tâm niệm, đã là người Đảng viên, thì ở bất cứ đâu, làm bất kỳ công việc gì, ta cũng đều sẵn sàng phục vụ với tinh thần cao nhất.

 Bác Tám Đô                                                                                                         Ảnh: Thành Châu

Mãi một niềm tin vào Đảng!

Ghi nhận những cống hiến của ông đối với sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã tặng thưởng cho ông nhiều phần thưởng cao quý: 1 Huân chương quyết thắng hạng nhất, 1 huân chương kháng chiến hạng Ba, 1 huân chương giải phóng hạng Ba, và 1 huy chương giải phóng hạng nhất. Là người  nhận được khá nhiều các loại bằng khen, giấy khen, nhưng mỗi lần nhận Huy hiệu Đảng là mỗi lần ông thấy bùi ngùi xúc động. Được sống giao thoa giữa hai thế kỷ, chứng kiến những bước ngoặt của lịch sử, từ cảnh đất nước chiến tranh lầm than, gian khổ, rồi hòa bình, độc lập xây dựng và phát triển đất nước, ông không khỏi bồi hồi xúc động. Ông thấy rằng, sự lãnh đạo của Đảng ta vượt qua những thời khắc khó khăn của lịch sử giành mọi thắng lợi và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng, giúp cho nhân dân ta “ai ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta tiếp tục ý chí xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được nhiều kết quả nhất định, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng ông tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Ở tuổi “xưa nay hiếm”, ông vẫn luôn một niềm tin với Đảng, với Bác Hồ. Ông cho rằng, quan trọng nhất để xây dựng Đảng vững chắc là phải xây dựng được niềm tin, từ niềm tin ấy mình sẽ vững vàng xây dựng đất nước. Mình tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ làm theo và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đã 24 năm về hưu, ông vẫn luôn rèn luyện phẩm chất của người đảng viên cộng sản. Bằng kinh nghiệm từng trải của mình, ông tham gia giúp cán bộ đương nhiệm về cách thức, phương pháp lãnh đạo, góp phần xây dựng Đảng và phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Trong căn nhà cấp 4 giản dị ngay giữa lòng của phố thị, vợ chồng ông sống chan hòa, gần gũi với xóm làng, chú trọng dạy con cháu về đạo đức, tư cách, lối ứng xử với mọi người. Thế hệ con, cháu noi gương cha mẹ, ông bà đều nỗ lực học tập, rèn luyện để có trình độ đại học, cao đẳng. Hiện nay, gia đình ông có 4 người con, 4 cháu nội và 3 cháu ngoại, đã có 7 người là đảng viên đang công tác trên mọi lĩnh vực, đóng góp xứng đáng cho quê hương, đất nước.

Chứng kiến sự trưởng thành của con cháu và sự đổi thay, lớn mạnh của đất nước hôm nay, ông rất hài lòng và cho rằng đó là nhờ có Đảng. Ông nguyện luôn ủng hộ và tin theo sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trên những giai đoạn mới, nhiệm kỳ mới.

Tác giả: Thành Châu

Nguồn tin: Từ CTV

Các tin mới hơn:

Các tin cũ hơn:

Lịch công tác tuần

Text/HTML

 

Văn kiện đảng bộ huyện Thăng Bình (cũ)

Liên kết website

Lượt truy cập

Tổng số lượt truy cập

000031589232